Chiếc xe xóc nảy ba tiếng đồng hồ trên con đường núi quanh co, cuối cùng cũng đến được ngôi làng ẩn mình trong mây kia.
Làng rất nhỏ, đầu làng có vài cụ già đang ngồi, tay đan giỏ tre, bọn trẻ con thấy xe đến liền tò mò chạy đến vây quanh.
“Thầy Thẩm!” Một bé gái tóc tết hai bên chạy đến, “Thầy lại tới rồi ạ!”
Thẩm Tịch ngồi xổm xuống, lấy từ trong ba lô ra một nắm kẹo: “Tiểu Linh cao lớn hơn rồi. Bà nội đỡ đau chân chưa?”
“Đỡ nhiều rồi ạ, thuốc mỡ lần trước thầy mang đến dùng hiệu quả lắm.”
Mấy ngày sau đó, Hứa Tri Ý theo Thẩm Tịch đi thăm bảy hộ gia đình.
Cô nhìn thấy một cậu bé mười tuổi tên là A Mộc, mỗi ngày đi bộ bốn dặm đường núi để đến trường, về nhà còn phải cho heo ăn, nấu cơm, chăm sóc ông nội bị liệt. Thẩm Tịch chụp lại góc nghiêng khi cậu bé nhóm lửa, ánh lửa từ bếp hắt lên gương mặt nhỏ rám nắng.
Cô nhìn thấy một bà cụ bảy mươi tuổi, ngồi trước khung cửi cả ngày không đứng dậy.
Những hoa văn cổ xưa từ tay bà tuôn chảy ra, mỗi màu sắc đều có một cái tên riêng: mây sau núi, màu trời trước bình minh.
Buổi tối, họ ở nhờ nhà của trưởng thôn, ngồi bên bếp lửa xem lại ảnh đã chụp.
“Tấm này rất đẹp.” Hứa Tri Ý chỉ vào tấm ảnh A Mộc đang làm bài tập—
Dưới ánh đèn vàng vọt, đứa bé nằm bò lên chiếc bàn thấp viết chữ, sau lưng là bức tường đất loang lổ, “Mắt nó có ánh sáng.”
Thẩm Tịch ngạc nhiên nhìn cô: “Em nhìn rất chuẩn.”
“Trước đây em từng làm công việc tổng hợp tài liệu cho mấy dự án công ích. Tuy chưa bao giờ đến hiện trường, nhưng em biết hình ảnh nào dễ chạm đến lòng người.”
Hai ngày tiếp theo, cô chủ động giúp sắp xếp tài liệu dự án.
Cô phân loại và lưu trữ những ghi chép rời rạc của Thẩm Tịch, tổng hợp thành danh sách các nhu cầu cần hỗ trợ rõ ràng, còn liên hệ với Lâm Vi.
“Ý tưởng thương hiệu hóa thủ công mỹ nghệ này rất hay.” Ở đầu dây bên kia, Lâm Vi chăm chú xem tài liệu Hứa Tri Ý gửi.
“Để mình cho đội bên mình theo sát, có thể triển khai kênh bán hàng trực tuyến.”
Cúp điện thoại xong, Thẩm Tịch nhìn cô: “Em rất có năng khiếu làm đổi mới xã hội.”
Hứa Tri Ý cúi đầu chỉnh lại ảnh: “Chỉ là trước giờ chưa có cơ hội làm mấy chuyện này.”
Củi trong bếp lửa nổ tí tách.
“Nói về em chút đi.” Thẩm Tịch thêm một khúc củi, “Sao lại đến Đại Lý?”
Hứa Tri Ý im lặng rất lâu mới mở miệng.
“Vừa kết thúc một cuộc hôn nhân. Muốn đổi chỗ sống, bắt đầu lại từ đầu.”
Thẩm Tịch không hỏi thêm chi tiết, chỉ nói: “Rời đi cần dũng khí, ở lại cũng cần.”
Tối hôm đó, họ trò chuyện đến tận khuya.
Thẩm Tịch kể về việc anh từ bỏ văn phòng thiết kế do gia đình sắp đặt, đeo máy ảnh đi khắp các bản làng dân tộc thiểu số ở Tây Nam;
Kể về trận tuyết đầu tiên anh chụp được ở thôn Vũ Băng, và cầu vồng anh chờ suốt ba ngày bên hồ Lô Cô.
Hứa Tri Ý phần lớn thời gian chỉ im lặng lắng nghe, thỉnh thoảng nhắc đến mình cũng chỉ là vài câu đơn giản:
“Hồi trước em chỉ muốn làm một người vợ tốt, sau này mới phát hiện, đến bản thân mình là ai cũng quên mất rồi.”
Thẩm Tịch nhìn khuôn mặt nghiêng được ánh lửa chiếu sáng của cô: “Còn bây giờ thì sao?”
“Bây giờ à…” Hứa Tri Ý khẽ khàng gẩy than, “Đang học.”
Chương 17
Tuần thứ hai sau khi trở về từ ngôi làng miền núi, Hứa Tri Ý đưa ra một quyết định.
Cô pha một ấm Phổ Nhĩ trong sân nhỏ của khách điếm, rồi gọi Thẩm Tịch và bà chủ quán đến.
“Em muốn làm một việc gì đó.” Cô trải bản kế hoạch viết tay lên bàn đá.
Bìa kế hoạch viết bốn chữ: Tái sinh thêu Điền.
Thẩm Tịch lật từng trang, mắt sáng rực lên: “Em muốn thương mại hóa kỹ thuật thêu truyền thống?”
Hứa Tri Ý chỉ vào sơ đồ quy trình: “Là mô hình hợp tác xã. Bọn em sẽ cung cấp thiết kế, kiểm soát chất lượng và kênh tiêu thụ. Các bà ở nhà thêu, tính công theo sản phẩm. Vừa giữ được hơi ấm của thủ công, lại giúp họ có thu nhập ổn định.”
Bà chủ quán ghé lại xem: “A Ý, cái này hay đấy! Trong làng chị nhiều cô biết thêu lắm, chỉ là không bán được thôi.”
“Chi phí đầu tư ban đầu để em lo.” Hứa Tri Ý nói, “Em sẽ đăng ký một xưởng nhỏ ở Đại Lý, trước mắt làm thử quy mô nhỏ.”
Thẩm Tịch ngẩng lên, ánh mắt đầy nhiệt huyết: “Em cần gì?”
“Những khung hình của anh.” Hứa Tri Ý cười, “Với cả các mối quan hệ của anh. Em muốn quay phim tài liệu, ghi lại những câu chuyện phía sau từng mẫu thêu. Những câu chuyện ấy, mới là giá trị thật sự của sản phẩm.”
Ngày hôm sau, Hứa Tri Ý đi làm thủ tục đăng ký xưởng.
Ngày thứ ba, cô thuê được tầng một của một căn nhà cổ cạnh cổ trấn.
Ngày thứ tư, Thẩm Tịch giúp sơn tường, bà chủ mang đến vài người chị em biết thêu.
Trong tháng đầu tiên, họ đã đến thăm bảy bản làng, tìm được hai mươi ba thợ thêu.
Hứa Tri Ý phân loại, chụp ảnh sản phẩm của từng người, lập hồ sơ riêng.
Cô liên hệ với nền tảng online do Lâm Vi giới thiệu và chốt được đơn hợp tác đầu tiên — một lô khăn trà thêu tay đặt làm quà tặng doanh nghiệp.
“Tri Ý, cậu làm tốt lắm.” Trong video call, Lâm Vi nhìn ảnh xưởng làm việc, xúc động nói, “Đây mới chính là con người cậu.”
“À đúng rồi,” Lâm Vi ngập ngừng, “Có chuyện này. Vụ án của Tô Yên có phán quyết rồi, bảy năm. Nhà họ Chu… lần này không nhúng tay vào.”
Hứa Tri Ý đang sắp xếp chỉ thêu, bàn tay khựng lại một lúc.
“Còn nữa,” giọng Lâm Vi dịu lại, “Chu Mặc Bạch tìm cậu sắp phát điên rồi.”
Hứa Tri Ý vuốt thẳng các sợi chỉ, cuộn lại thành bó: “Ừ.”
“Chỉ ‘ừ’ thôi à?” Lâm Vi nhướng mày.
“Mọi thứ đã qua rồi. Giờ tớ có việc quan trọng hơn.”
Ba tháng sau, lô sản phẩm đầu tiên của dự án Tái sinh thêu Điền chính thức ra mắt.
Khăn trà, khăn trải bàn, túi thơm, bọc sổ tay… mỗi sản phẩm đều đi kèm một tấm thẻ có ảnh và câu chuyện của thợ thêu.
Các đoạn phim tư liệu do Thẩm Tịch quay được cắt ghép thành clip ngắn, lan truyền âm thầm trên mạng xã hội.
Đơn đặt hàng dần dần nhiều lên.
Hứa Tri Ý bận rộn tối mặt: kiểm đơn, sắp xếp sản xuất, kiểm tra chất lượng, đóng gói, gửi hàng.
Nhưng trong mắt cô luôn ánh lên tia sáng.
Thẩm Tịch trở thành nhiếp ảnh gia thường trú của xưởng.
Anh chụp sản phẩm, chụp thợ thêu, cũng thường xuyên hướng ống kính về phía Hứa Tri Ý.
Góc nghiêng lúc cô cúi đầu kiểm tra sản phẩm, dáng vẻ tập trung khi học kỹ thuật thêu với các bà, bóng lưng phơi vải trong sân…
“Tấm này đẹp ghê.” Một hôm bà chủ chỉ vào màn hình máy tính, là bức ảnh Hứa Tri Ý đang dạy một bé gái chia sợi chỉ.

